Giới thiệu khái quát Nhạc_phủ

Buổi đầu, nhạc phủ được dùng trong dịp lễ tế, hoặc để ca tụng và giúp vui cho đế vương. Về sau, do nó phô diễn được ý thức, tình cảm của đủ loại giai cấp, nhất là giai cấp nông dân (vì những bài dân ca được tuyển chọn nhiều nhất); bởi thế ngoài vai trò trên, nó còn là một thể loại sáng tác, một lối "hát xướng" được nhiều giới yêu chuộng.

Phần lớn nhạc phủ đều viết theo thể tự sự, giàu ý nghĩa xã hội; hình thức phổ biến thường là ngũ ngôn hoặc tạp ngôn (dài ngắn xen kẽ).

Nội dung

Dân ca nhạc phủ đời Hán, tuy không nhiều bằng Kinh Thi, nhưng ý nghĩa xã hội lại có phần sâu sắc hơn. Có những bài miêu tả cụ thể, chi tiết thảm họa do chiến tranh xâm lược gây ra như: "Chiến thành Nam" (Đánh phía Nam thành), "Thập ngũ tòng quân chinh" (Mười lăm tuổi theo quân đi chinh chiến)...Có những bài thể hiện rõ rệt sự căm phẫn của dân chúng đối với ách áp bức như "Bình Lăng đông" (Phía Đông Bình Lăng), "Đông môn hành" (Bài hành cửa Đông)...

Và cũng như Kinh Thi, hình tượng phụ nữ chiếm địa vị khá nổi bật trong nhạc phủ. Nhưng chỉ khác là, ở nhạc phủ không còn hình ảnh những thiếu nữ "hồn nhiên, nhí nhảnh, nghịch ngợm" như ở Kinh Thi, mà đa phần chỉ có những người phụ nữ khổ đau vì nghèo đói, bệnh tật ("Bệnh phụ hành" - Bài hành người phụ nữ đau ốm), bị chồng bỏ ("Oán ca hành" - Bài hành ca oán, "Hữu sở tư" - Có điều suy nghĩ). Cá biệt, chỉ có ít bài tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh của phụ nữ, như: Tần La Phu trong "Mạch Thượng Tang" (Dâu bên đường)...[6]

Hình thức

Dịch Quân Tả viết:

Ở đây có một điểm cần lưu ý là tất cả thi ca của nhạc phủ đời Hán đều có thể phối hợp được với âm nhạc. Có nghĩa, từ sau khi cơ quan Nhạc phủ được thành lập, những ca từ nào hợp tấu được với nhạc khí, thì gọi là nhạc phủ; còn những ca từ nào không phối hợp được thì gọi là thi (thơ). Lằn ranh giới tuyến đã được định rõ.

Về hình thức, theo Nguyễn Hiến Lê, nhạc phủ đại để có hai loại:

  • Loại chịu ảnh hưởng của Sở từ (phương Nam) câu thường có 7 chữ, dùng chữ "hề" để đưa đẩy. Loại này là gốc lối thơ thất ngôn.
  • Loại chịu ảnh hưởng của Kinh Thi (phương Bắc) câu thường có 5 chữ. Loại này là gốc lối thơ ngũ ngôn.

Nhận xét chung, ông viết: Lời trong nhạc phủ không đẽo gọt như phú, nhưng miêu tả rất rõ ràng, ý chân thành, dễ cảm người nghe.[1]

Theo Nhạc phủ thi tập[7] của Quách Mậu Thiến, nhạc phủ có 3 nhóm chính (dựa theo mục đích sử dụng):

Nhạc phủ cung đình

Phần lớn ca khúc đều mô phỏng theo Kinh Thi hoặc Sở từ. bao gồm những nhạc chương dùng để tế thiên địa, tông miếu hoặc dành để ca tụng đế vương, chia làm:

  • Giao miếu ca, có:
    • Miếu từ ca: có bốn loại, gồm: Tông miếu nhạc, Chiêu dung nhạc, Lễ dung nhạc, Phòng trung từ nhạc.
    • Giao tự ca: về kỹ thuật sáng tác, nó cao hơn Miếu từ ca một bậc.
  • Yến xạ ca: có ba loại, gồm: Yến Hưởng nhạc, Đại xạ nhạc, Thực cử nhạc; dùng để tấu xướng lúc nhà vua hưởng yến tiệc.
  • Vũ khúc: có ba loại, gồm: Nhã vũ, Tạp vũ, Tản nhạc. Riêng Tản nhạc là loại ca vũ của phường hát. Nó chính là giai đoạn phôi thai của lối nhạc sân khấu về sau này.

Nhạc phủ dân gian

Các ca khúc đều thuộc loại tạp ngôn. Lúc đầu nhiều nhất là tam ngôn về sau ngũ ngôn dần chiếm ưu thế. Loại này rất phổ biến và chia làm rất nhiều nhóm, như: Tương hòa ca từ, Tập khúc ca từ v.v...

Nhận xét tổng quát thể loại này, Nguyễn Hiến Lê viết:

Bài nào cũng tự nhiên, tình nồng nàn, phần nhiều đượm vẻ buồn, có giọng than thở cho đời người ngắn ngủi, nhân tình éo le, cảnh ngộ trắc trở, lòng người đen bạc.[1]

Nhạc phủ ngoại lai

Không có nghĩa là những ca từ do người nước ngoài sáng tác, hoặc chịu ảnh hưởng; mà chỉ là mượn những nhạc khí được du nhập từ những dân tộc miền Bắc như đoản tiêu và hồ già[8] để hòa tấu.

Tầm ảnh hưởng

Kể từ khi có nhạc phủ cho đến thời kỳ cận đại, lúc nào cũng có những sáng tác mô phỏng nhạc phủ. Tình hình đó đã tạo nên một loại thơ đặc biệt trong lịch sử thơ ca Trung Quốc. Nói khác hơn, theo GS. Nguyễn Khắc Phi, thì nhạc phủ Nhà Hán-Lục triều chính là nguồn nuôi dưỡng quý báu của dòng thơ bác học.[6]